một trà một rượu một đàn bà

Uống trà là cái thú thứ nhất đối với nhiều người: "Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta" (Trần Tế Xương). Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi (như người cày đồng về nhà, khát nước, "kéo gáo" bên vò nước lã) mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Chia sẻ. Sinh thời, Tú Xương có viết: "Một trà, một rượu, một đàn bà/Ba cái lăng nhăng nó quấy ta". Nói "quấy", nhưng nhà thơ "tự nguyện" đấy! Thế mới biết tửu và sắc hấp dẫn đến độ nào. Nhưng nếu lạm dụng, bạn hãy coi chừng Ông bà chúng ta thường khuyên con cháu khi trưởng thành chớ có đam mê tửu sắc. ^_^ Một trà một rượu một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó hại ta / Chừa được cái nào hay cái ấy / Có chăng chừa rượu với chừa trà (Ba thứ lăngnhăng - Tú Xương) Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương : Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta "Một trà, một rượu, một đàn bà Người ta có thể uống trà một cách im lặng và nhiều khi sự im lặng đó ẩn chứa nhiều điều. Trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, tỉnh táo, tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác. Một trà, một rượu, một thơ ca Người ta đã không nhầm tí tẹo nào khi bảo tại đâu có cái sự nhâm nhi trà (chè) và rượu, ở đó tất kèm theo thơ. Ngược lại, chỗ nào có thơ, hẳn nơi ấy hiện diện chén rượu, tách trà. Mà không phải chỉ ở xứ ta, khắp trên trái đất. "Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được thứ nào hay thứ nấy. Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui: 1- MỘT TRÀ: Chẳng được bao lâu. tiarusgurea1979. Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của mình. source from Quách Tố Vương Xin đọc câu chuyện vui sau đây “Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi – Ông là ai mà đứng trước nhà tôi? Gã lạ mặt trả lời- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn đàn ông từ chối – Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc. Gã lạ trả lời – Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc. Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói – Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều Gã lạ mặt ngạc nhiên – Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn. Người đàn ông nói – Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi! Như ông Tú Vị Xuyên “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.” Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái Ăn, ngủ, ấy, ể. Những cái khoái của ông Tú là “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui 1- MỘT TRÀ Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.” Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè. Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau. Bà vợ ngạc nhiên la lên “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?” Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn. Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.” Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn. Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống. Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời. Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm. Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa. Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả.. Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm. II- MỘT RƯỢU Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản. Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho. Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ. Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề – Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa. Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh. Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa. Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo. Thứ nhứt rượu đã ngà ngà, Thứ nhì chàng ở phương xa mới về. Chàng ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi. Lờ rằng lờ chẳng sợ ai Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ. Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say. Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi. Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng Một ly nhâm nhi tình bạn Hai ly uống cạn lòng sầu Ba ly mũi chảy tới râu Bốn ly ngồi đâu gục đó Năm ly cho chó ăn chè Sáu ly vợ đè cạo gió. Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt Sparkling wine thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v…v… Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange – Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. – Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu. Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay chát trắng và loại Pinot noir chát đỏ của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây. Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là – Lứ chía pừng hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái. Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách. Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 19 75 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ. Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết. Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít. “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua là tại không tiền không mua.” III- MỘT ĐÀN BÀ Như trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu Còn ăn, còn ngủ, còn gân, Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi? Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được. Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. Sáng Thế K. 2 21, 22. Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn. Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa. Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người. Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại “Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi. “Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.” Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng cũ đến chàng là năm Còn như yêu vụng nhớ thầm Họp chợ trên bụng có trăm con người.” Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn. Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. / phan nguyên luân / … thực hiện Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta Trai không có rượu cờ sao dựng Gái muốn thêm canh phải chuốc trà Canh khuya ôm ấp cái đàn…bà Gảy khúc du dương bạn với ta Sáu nốt nào hay hơn nốt ấy Chùng dây trăng lặn cũng tàn trà Hồ Văn Thiện Chẳng bỏ được Có thú nào hơn…với các bà Đắm say trong suốt cuộc đời ta Rượu ngon hưng phấn lên cao độ Chẳng bỏ được đâu kể cả trà! Lê Trường Hưởng Trót rồi Đã nghiện trà thơm lại thích bà Thêm ly rượu đế mới là ta Loanh quanh tính toán so đo mãi Hết rượu quay ra lại vẫn trà ! Ngô Quốc Lộc Vô đề Một lão say thơ với một bà Trà ngon rượu hũ háu bên ta Phải chăng chưa đủ còn hay nữa Mãi thích tình riêng, chút tửu tràPhó Mộc Đủ Tam Khoanh Đương nhiên khoái nhất vẫn là bà Rượu thuốc cũng là thú của ta Hai thứ dùng e gan phổi hỏng Cho nên đều đặn phải kèm trà Giang Thanh Hà Tam Hạp Tách nóng, bình thơm thêm có bà Còn gì hơn nữa cái đời ta? Cả ba đều gợi lên thi hứng Tình đắm rượu say lại ngấm trà. Chanh Rhum Vẫn ung dung Sao cứ quẩn quanh với một bà Thế thì thua đứt lão gần ta Cụ vơ tay trái thêm hai mớ Mà vẫn say sưa Rượu với Trà Mất Hút Khoảnh khắc quay ra mất hút bà Trăm phần gã ấy nó lừa ta Rủ đi đánh chén rồi bay biến chai rượu nằm trơ cạnh ấm trà Trốn hay là Chánh Yên mời họa chính thơ bà Thiền Hộ đâu cần ngó đến ta Về tận Tú Xương cùng Nguyễn Khuyến Quanh vào chén rượu với chung trà Chiến Anh Không đề Chánh Yên một lúc túm ba bà Đâu có thì giờ ngó đến ta Đành phải đi tìm nhà cụ Tú May ra còn được một tuần trà Thiền Hộ Hoan lạc Chẳng Vương mình cũng thích dăm bà Ấp lạnh, quạt nồng chiều chuộng ta Hủ hỷ cầm kỳ đêm chuốc rượu Hoan ca thi họa ngày nâng trà! Gió... Tam nhiễm Sắc nhiễm đầu tiên bởi quí bà Tửu hương còn đắm hại đời ta Nhất nhì đeo phải đà gian khổ Tam vẫn luôn đây ngụm tách trà Nam Khánh Luật đời Nửa cuộc đời là “ông hoặc bà” Thú vui đệ nhất Chúa ban ta. Âm dương hòa hợp thành viên mãn Muốn có thơ thêm thuốc - rượu - trà ! Ngũ vị Tú Xương nịnh vợ gọi là Bà “Nuôi đủ năm con với một ta” 1 . Thơ phú,cô đầu ông thích tuốt Lẽ nào từ vị rượu và trà ? Nửa mất... khó thay Chưa mãn cuộc đời đã mất “bà” Ông xanh sao nỡ hại riêng ta. Đã chừa thuốc lá từ lâu lắm Còn chút niềm vui THƠ, rượu, trà ! Phạm Minh Khôi Trang chủ Cười 24H Thứ Tư, ngày 05/09/2012 1108 AM GMT+7 Chừa được cái gì hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà... Hôm nay 5 tháng 9 năm 2012, cách đây đúng 142 năm nhà thơ Tú Xương ra đời. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên khai sinh là Trần Duy Uyên, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định. Ông chỉ sống ở trên cõi đời này có 37 năm nhưng đã để lại cho hậu thế hơn trăm bài thơ đủ mọi thể loại thơ từ Thất ngôn bát cú; tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ”. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Nhân dịp sinh nhật ông, Cười 24H từ lâu vốn ngưỡng mộ ông, coi Tú Xương như ông tổ của dòng thơ hài hước, châm biếm Việt Nam xin mạn phép múa trộm “bàn phím” ít dòng để tỏ lòng tưởng nhớ đến tiền nhân. Tú Xương rất đẹp trai! Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương tuyệt nhiên không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú chắc chắn là cực kỳ đẹp trai, phong độ. Điều này được Cười 24H “suy luận” qua bài thơ của người bạn học tên Lương Ngọc Tùng tả về ông “Cùng làng, cùng phố, học cùng trường Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương, Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết, Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương. Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú, Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường. Mấy chục năm trời đà vắng bóng, Nghìn năm còn rạng dấu thư hương” Không đẹp trai sao được khi Trán rộng, da trắng, mồm tươi, mũi thẳng, mắt sáng, thư sinh? Cũng chính vì đẹp trai như vậy nên các cô gái mê Tú Xương như điếu đổ, đến nỗi mới 16 tuổi Tú Xương đã phải lên giường - xin lỗi, lên đường lấy vợ. * * * Tú Xương cũng mê tín? Cả cuộc đời Tú Xương hầu như chỉ gắn liền với thi cử, tổng cộng 8 lần, đó là các khoa Bính Tuất 1886; Mậu Tý 1888; Tân Mão 1891; Giáp Ngọ 1894; Đinh Dậu 1897; Canh Tý 1900; Quý Mão 1903 và Bính Ngọ 1906. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ 1894 ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ lấy thêm. Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão 1903 Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi vẫn trượt vỏ chuối, Tú Xương đã cáu sườn đến độ thốt ra thơ “Tế đổi làm Cao mà chó thế, Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!” * * * Tên Tú Xương được dùng để quảng cáo lò luyện thi! Ăn theo câu chuyện Tú Xương nổi tiếng thi hỏng, ngày nay có một trung tâm luyện thi đã quảng cáo rằng “Bạn có biết rằng có những người thi tới 8 lần không đỗ, mặc dù họ không hề kém, đó là ai, xin thưa đó chính là Tú Xương! Vậy tại sao Tú Xương thi 8 lần đều trượt? Bởi vì Tú Xương đã không tới luyện thi đại học tại trung tâm của chúng tôi. Hãy đến trung tâm luyện thi đại học X, địa chỉ Y, số điện thoại Z để có số phận khác Tú Xương”. * * * Tú Xương là nhà báo! Tú Xương có thể coi như là một nhà báo đầu tiên ở VN vì tính báo chí trong thơ ông thể hiện rất rõ trộm vía, nếu sống ở thời nay thì chí ít ông cũng là tổng biên tập một tờ nào đó. Thơ Tú Xương như một tấm ảnh ghi lại những gì xung quanh, nào là ăn cắp vào nhà pha, nào sư ở tù, mán ngồi xe, nào cảnh mẹ vợ ngủ với chàng rể, cô ký lấy lẽ Cũng rất gần báo chí là cái tư duy bám sát hiện tượng và sự vật của thơ Tú Xương. Ông thích mô tả, mà không thích tổng hợp vội, khái quát non. Nhân vật ông nói tới phải có cái tên cụ thể ông ấm Điềm, ông cử Nhu, ông đồ Bốn..., địa điểm xảy ra hành động cũng là những phố, những làng có thật Hàng Lờ, Hàng Nâu, Hàng Sắt Đặc biệt, với Tú Xương bắt đầu cả loạt thơ chân dung viết về đủ loại ông đốc, ông phủ, ông đội, ông lang, ông cò, cô đầu, lái buôn, bợm già, công chức thuộc địa Những con người có thật đó vào thơ ông sống động linh hoạt như ở ngoài đời mà vẫn gợi ra những ý nghĩ khái quát mà các bài báo sắc sảo phải có. Nhiều sáng tác của Tú Xương hình như được viết rất nhanh. Sự việc vừa xảy ra là ông có thơ ngay. Lại có những bài ông làm theo theo đơn đặt hàng của người khác, mà vẫn chân thành, sâu sắc và gửi gắm được tâm sự riêng của mình. Cái lối viết có vẻ như không cần cảm hứng này đích thị là một kiểu rất gần với báo chí hiện đại. Nếu là nhà báo, Tú Xương sẽ là một nhà báo viết được nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Trong khi bị gò bó ở thể thơ thất ngôn, ông vẫn tỏ ra là một ngòi bút phóng túng, có thể “xoay phỏm” đủ kiểu, từ phóng sự, đặc tả cho tới tạp ghi, phiếm luận, nhàn đàm... thậm chí là cả dịch thuật nữa. * * * Tú Xương là “thần tượng” của đàn ông Việt! Chỉ với 4 câu thơ, Tú Xương đã làm đàn ông VN đến tận hàng trăm năm sau vẫn tỏ rõ sự “ngưỡng mộ, biết ơn” khi ông đã nói rõ lòng họ một cách đầy công khai nhưng cũng thật... tinh tế trong bài thơ Ba cái lăng nhăng đáng được lọt vào top những bài thơ đi cùng năm tháng Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà! Xem một số bài họa * * * Tú Xương là người tình tuyệt vời của vợ Với đàn ông thì Tú Xương đã thành tấm gương cao cả, với phụ nữ Tú Xương cũng khiến họ có thể dâng hiến cả đời cho nhà thơ bởi những “tuyệt phẩm siêu nịnh vợ” với những dòng thơ như rút từ gan ruột của mình, đó là các bài “Thương vợ”, “Văn tế sống vợ”, hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương hiện lên đẹp đến mẫu mực như hình ảnh phụ nữ VN điển hình với những câu “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông...” Thương Vợ Dâng hiến cho chồng ở đây là Tú Xương cả vật chất lẫn tinh thần chưa đủ, trên thực tế vợ của nhà thơ còn dâng hiến cho ông đến tận 8 người con 6 trai, hai gái chứ “năm con với 1 chồng” là nhà thơ tài hoa và khỏe mạnh phong độ của chúng ta còn chưa “liệt kê” hết ở thời điểm sáng tác bài thơ “nịnh vợ” siêu kinh điển này. Cười 24H tin chắc rằng bất kỳ một người vợ VN nào “vô tình” đọc được những dòng thơ biết ơn và ngưỡng mộ vợ đến vậy trong nhật ký bí mật của chồng mà không nở một nụ cười mãn nguyện đồng thời nhũn như con chi chi và mất hết sức chiến đấu thì không thể nào là phụ nữ! Càng nói càng phục cái tài Tú Xương đến sát đất. Nói không ngoa thì đây có thể coi là một trong những “diệu kế” hàng đầu của “Binh Pháp trị Vợ”. Chỉ riêng điều này đã đủ để Tú Xương trở thành một Hưng Đạo Vương trong Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. * * * Chỉ duy nhất Tú Xương làm được Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử thơ phú Việt Nam Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ “xương” với nghĩa "thịnh vượng" còn có nghĩa là đẹp, thẳng. Sách xưa có câu "Đức giả xương" người có đức, thịnh vậy. Không phải là xương theo nghĩa “xương thịt”. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "hư cấu", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương thịt lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, 21 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc... và ngay cả ở 24H cũng có Cử Tạ và Tú Jap, dù không nổi tiếng nhưng cũng nổi... tai tiếng viết tệ! * * * Với tinh thần ngưỡng mộ cụ Tú Xương cao độ, người viết bài này xin dẫn lại một bài thơ của chính mình phỏng theo lối thơ của cụ Tú để nói về những người đang ngày đêm noi gương cụ viết tiếp những dòng trào phúng, hài hước, châm biếm trên Cười 24H Chém cha cái kiếp viết truyện cười Hai tay ôm phím, mặt ngửa trời Ngó giống đười ươi cười sằng sặc Rặn ra một đống “những vui tươi” Chém cha cái kiếp viết truyện cười Ruột gan dẫu héo mặt phải tươi Mỗi ngày phục vụ bao độc giả Làm dâu trăm họ mệt đứt hơi Chém cha cái kiếp viết truyện vui Sếp chê truyện viết rất... dở hơi Dăm ba độc giả khen... thâm thúy Nhẫn tâm kẻ phán “Viết như b...” bò Chém cha cái kiếp viết truyện hài Gà chưa kịp gáy đã đăng bài Đêm hôm khuya khoắt bò trên Net Rình rập post tin buổi sáng mai Chém cha cái kiếp viết tiếu lâm Người yêu, kẻ ghét, đứa chê... hâm Vài cô ngúng nguẩy “Trình hơi thấp” Dăm chị ỉ ôi “chuyện quá... dâm”! Một điều khoái hoạt vào loại nhất trong cuộc đời có nhiều vụn vặt của những đàn ông, đó là uống rượu. Đại thi hào của người Việt là cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến tuy tưng tửng đùa nhưng vẫn trân trọng ghi nhận. Một rượu một trà một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ảnh trắng đen sờn cũ cuối thế kỷ XIX, chụp cụ Nguyễn đang rưng rưng cầm trong tay một chén rượu nhỏ hạt mít, được rất nhiều nhiếp ảnh gia đương đại coi là mẫu mực của thể loại ảnh chân dung. Theo truyền ngôn, một nam danh sĩ ở thời Thịnh Đường bên Trung Quốc, chết vì uống rượu quá nhiều, trong một lúc hiếm hoi tỉnh cũng đã mạnh dạn đưa ra một list “tứ đại đô ping” cho giới mày râu. Tửu, Sắc, Yên, Đổ. Nôm na đại loại là, rượu chè, trai gái, hút hít, cờ bạc. Văn hoá bình dân tái công nhận điều này bằng thuật ngữ “tứ đổ tường". Và đương nhiên, trong cái sự sập nhà không cần bão ấy, rượu chiếm ngôi vị quán điều kha khá lạ lùng là trong giới văn nghệ sĩ khi tới lúc mệt mỏi tận cùng của văn chương, của sân khấu, của điện ảnh thì hay buông bút lui về cầm chén. Rồi cũng không hẳn vì mưu sinh, bỗng một ngày thanh thản náo nức mở tửu quán. Việc mở quán thường hay rơi vào văn sĩ hoặc nhạc sĩ. Quán của văn nhân rượu thì ngon nhưng đồ mồi thì dở. Quán của nhạc nhân hình như ngược lại, món nhắm không tệ nhưng rượu đôi khi rất tồi hôm rồi, nhiều người sành uống có được mời đến quán rượu của nhạc sĩ tha hương gốc HàNộiPhúQuang. Nhạc sĩ mớimở một tửu lầu ở giữa đoạn phố nhỏ chính lòng Thủ Đô. Không hiểu sao rượu và đồ uống đều đột ngột tuyệt ngon, có người lành và sành mồm cho rằng hôm đó là ngày khai quán.Đàn ông mà biết uống rượu thì từ xưa đến nay cũng không có nhiều, bởi rượu là thứ đờ uống tuyệt đối khó tính. Thể chất rượu tuy tinh thuần nhưng khí độ của nó lại nồng nàn đậm. Hoặc quá chén hoặc lỡ chén đều dễ xảy ra vô số lầm lỗi,có kẻ đa tình sau khi uống thì bị mất người yêu như nhân vật Hoàng trong tiểu thuyết "Cơ hội của Chúa”. Có bậc vương giả sau khi uống thì bị mất nước. Trần Hậu Chủ một ông vua bên Tàu là người như vậy. Ông này đa tài cái thiếu duy nhất là lài trị nước, là tác giả chưa bao giờ đạo nhạc của hai điệu khúc khét tiếng có ca từ gây sốc "Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa". Khi quân nhà Tuỳ áp sát kinh thành. Hậu Chủ vẫn bất cần cùng quần thần và mỹ nữ dâm dật bét nhè nốc rượu. Tuy nhiên, nếu phải so với HoằngQuan, vua nhà mạt Minh thì Trần Hậu Chủ chưa là cái đinh gì. Ông này chỉ hiếu tửu, khi thua trận bỏ Yên Kinh chạy loạn xuống phía Nam, buồn đờiphẫn chí liên miên uống liền tù tì 24/24. Trước khi mất vì viêm gan một căn bệnh rất đặc trưng của đám tửu đồ, nó độc đáo độc quyền độc vị y như cứ nhắc đến quan chức là hầu hết phải nhắc đến tham nhũng, vị tửu vương này để lại một cặp câu đáng gọi là tuyệt cú. “Vạn sự hà như bôi tại thủ. Bách niên kỷ kiến nguyệt đương đầu”. Một ba ten đờ hành nghề pha rượu ở Khách sạn năm sao thời nay đã hoang mang dịch. “Mọi sự sướng nhất, tay cầm chén. Mấy khi trăng chiếu đúng đỉnh đầu”. Rượu có hại như vậy nên trong thanh quy giới luật của rất nhiều tôn giáo đều có giới tửu. Giới này phải nghiêm ngặt giữ y như giới nhưng rượu cũng như mỹ nhân, thoạtnhìn lỗi thì lớn nhưng sâu xa thì hoàn toàn trinh bạch vô tội. Rượu giống đạo lý ở chỗ không rõ hình hài. Nó thiên biến vạn hoá lộ diện vào phong thái của người uống. Nhân cách mà thanh cao thì rượu thanh cao. Tư cách mà dung tục thì rượu dung tục. Không phải ngẫu nhiên trong sự cúng kính Trời Đất hoặc tế lễ tổ tiên thì rượu là thứ bắt buộc phải dùng. Hương rượu tuy nồng nhưng không ô trọc. Chấtrượu tuy đạm nhưng không bợn đầy. Uống đủ lượng rượu không những lời hay ý đẹp lâng lâng tràn ngập mà tâm can đột ngột tiêu sái chân thành cởi mở. Đáng nhẽ chỉ đọc một đoạn thi thì bỗng phừng phừng hứng chí ngâm hết cả một trường ca dài tới câu lục đây quý bà, quý cô thường lo lắng là đàn ông Việt đang uống rượu nhiều quá, nhưng chắc chắn họ sẽ lo hơn khi tất thảy chồng của họ, người tình của họ lũ lượt rủ nhau đi uống sữa.

một trà một rượu một đàn bà